Thứ Ba, 6 tháng 6, 2017

CUỘC ĐỜI TÌNH ÁI CỦA CÔ GIANG 

VÀ NGUYỄN THÁI HỌC

Từ sau vụ ám sát Bazin, đảng trưởng VNQDĐ Nguyễn Thái Học đeo hai cái án xử vắng mặt với trát truy nã rất gắt gao đến các hang cùng ngõ hẹp. Nguyễn Thái Học luôn luôn phải hóa trang, khi khoác áo cà sa đóng vai nhà tu hành khổ hạnh đi khuyến giáo; lúc khoác áo thương nhân đóng vai bác lái trâu, lái thuốc lào; hoặc anh nông phu vác cuốc vác vồ ra đồng làm ruộng; đôi khi còn hóa trang giả phụ nữ ra đồng nhổ mạ cấy lúa; cũng có khi đóng vai ông lý Đình Dù vác chiếc ô rách ra chơi Kinh kỳ thăm bà con họ hàng.
Gặp bao hoàn cảnh khó khăn! Nguyễn Thái Học hoạt động cách mạng hăng say hơn bao giờ hết! Công tác chính là công tác kiện toàn lại Đảng tiến tới giai đoạn cấp bách Tổng Khởi Nghĩa. Vấn đề liên lạc được coi như vấn đề hệ trọng, liên lạc luôn phải thay đổi đồng chí để tránh tai mắt nhòm ngó của mật thám. Nên từ đấy được ủy thác cho mấy nữ đảng viên: Đỗ Thị Tâm, Nguyễn Thị Tình, Nguyễn Thị Thành, Nguyễn Thị Bắc, Nguyễn Thị Giang… Cô Giang là nữ liên lạc đứng vào hạng xuất sắc nhất. Không những thế, cô Giang còn là một tay tuyên truyền giỏi, tổ chức được Binh đoàn Yên Bái, Binh đoàn này làm nên cuộc Tổng Khởi Nghĩa đêm mồng 9 rạng mồng 10 hồi tháng 2 năm 1930.
Nguyễn Thái Học hoạt động cách mạng mạnh mẽ trong thời kỳ ấy, một phần lớn là nhờ sự giúp đỡ của nhân dân; và cũng một phần phải nhờ ở tai mắt và sự khuyên ngăn khuyến khích của Nguyễn Thị Giang và một đồng chí luôn luôn ở bên cạnh để bảo vệ là Sư Trạch, hai người này là hai cánh tay của Nguyễn Thái Học vậy. Nhiều khi Thái Học phải cải trang tạm lánh ở vùng Hòa Bình, Ninh Bình, Phú Thọ, nơi rừng núi bao la. Nguyễn Thị Giang luôn luôn đem tin tức cho Thái Học và lại đem chỉ thị của Thái Học truyền đi các nơi. Bất cứ một công tác nào, dầu khó khăn đến đâu, được Đảng trao phó, cô Giang đều thi hành có kết quả.
Theo điều lệ của VNQDĐ thì không kết nạp phụ nữ vào Đảng, mà chỉ có sự kết nạp vào Đoàn. Trường hợp Nguyễn Thị Bắc và Nguyễn Thị Giang là một trường hợp đặc biệt. Vì trước ngày thành lập VNQDĐ, hai cô Bắc và Giang đã ở trong tổ chức cách mạng bí mật của cụ Nguyễn Khắc Nhu ở Bắc Giang. Đến khi cụ Nguyễn Khắc Nhu tham gia VNQDĐ thì lý đương nhiên cả tổ chức của cụ cũng đều được tham gia VNQDĐ.
Bắc, Giang, Tỉnh là 3 chị em ruột, con một nhà Nho ở phủ Lạng Thương tỉnh Bắc Giang. Vốn nhà thanh bạch, nhưng cả 3 cô đều có công, dung, ngôn hạnh hoàn toàn. Hai cô chị lại được học ít nhiều Hán văn, chữ Pháp theo hết bậc Tiểu học. Cô Giang lại thông minh sắc sảo và tài ba hơn cô chị nhiều. Mặt hơi rỗ huê, nhan sắc tuy không đẹp lắm, nhưng duyên dáng và lịch sự vô cùng. Vì nhà nghèo nên cô phải thôi học sớm, về làm nghề dạy trẻ em, nên người ta thường gọi cô giáo Giang.
Một đôi trai tài gái sắc, lại cùng chung chí hướng, cùng cảnh ngộ, cùng có dịp gần gũi bên nhau luôn, nên chẳng mấy lúc đã nảy lên những tiếng đàn đồng điệu. Họ đã cảm thông và đồng quan điểm như nhau, họ cảm thấy yêu nhau, và đã cảm thấy không thể xa cách được nhau.
Một buổi chiều hè, trên đường từ Phú Thọ về miền xuôi, Nguyễn Thái Học cùng Nguyễn Thị Giang cùng ghé vào đền Hùng Vương để hội đàm với Phó Đức Chính, Lê Hữu Cảnh và Đặng Trần Nghiệp. Sau khi họp bàn xong, Học và Giang rủ nhau ra ngoài hóng gió.
Đêm đã vào khuya, Lê Hữu Cảnh bước ra sân đền, với ý định gọi hai người vào ngủ. Cảnh thấy Nguyễn Thái Học vì quá mệt mỏi đã ngồi tựa lưng vào gốc cây ngủ say, bên cạnh cô Giang ngồi tay phe phẩy quạt xua muỗi và trông chừng. Lê Hữu Cảnh lặng lẽ quay gót vào mật bàn với Phó Đức Chính và Đặng Trần Nghiệp: có dịp thuận tiện nên yêu cầu Đảng bộ cho phép Học, Giang được thành đôi lứa kết hôn.
Một lần khác lại có dịp qua đền Hùng Vương. Thái Học cùng cô Giang vào chiêm bái, trước bàn thờ Tổ, khói nhang nghi ngút, hai người cùng nhau thề thốt nặng lời. Thề thế nào cũng lấy nhau nhưng chỉ thành chính thức sau khi cách mạng thành công, và được Đảng cho phép. Thấy Nguyễn Thái Học đeo khẩu súng lục, cô Giang xin được đeo, để sau này Nguyễn Thái Học có vì Tổ Quốc mà mệnh hệ nào thì Giang cũng quyết dùng khẩu súng này để chết theo!
Tình yêu là một việc riêng, nhưng nhiệm vụ đối với Đảng là một việc công. Bất cứ công tác gì dầu khó đến đâu, Nguyễn Thị Giang đều làm chu đáo.
Cuộc Tổng Khởi Nghĩa thất bại. Quay về Bắc Ninh, Bắc Giang, Nguyễn Thị Giang đang chuẩn bị việc đánh chiếm một đồn binh Khố Xanh để làm căn cứ địa thì được tin Nguyễn Thái Học đã bị bắt, ban đầu cô còn nghi ngờ, vì rất có thể thực dân cho phao đồn tin ấy để trấn áp dư luận, khủng bố tinh thần những đảng viên còn thoát ở vòng ngoài, chứ chưa chắc đã là sự thực, cô Giang liền thu xếp mọi việc rồi tức tốc sang Hà Nội, tìm đến Lê Hữu Cảnh. Cảnh cho biết Nguyễn Thái Học đã bị bắt thật rồi! Ngoài anh Học ra, Sư Trạch, Phó Đức Chính, Nguyễn Như Liên cũng đều bị bắt hết.
Nghe Lê Hữu Cảnh thuật lại xong, cô Giang nghẹn ngào gần như tắt thở. Cô rất lo cho tiền đồ của Đảng, vận mệnh của Tổ Quốc. Tinh thần cô Giang trở nên khủng hoảng, bỗng dưng khóc, bỗng dưng cười, gần như một người mất trí, người điên, khiến các đồng chí của cô có mặt ở Hà Nội, phải tìm hết lời an ủi và tìm đủ mọi cách để bảo vệ tính mạng cho cô có thể ở yên tại Hà Nội, để gián tiếp thăm nom và giữ vững tinh thần cho Nguyễn Thái Học.
Một ý nghĩ táo bạo thoáng xuất hiện trong đầu óc cô Giang, là phải làm thế nào để cứu thoát được Nguyễn Thái Học và các đồng chí bây giờ? Cô Giang đem ý định bàn với các đồng chí tổ chức một cuộc bạo động để cướp lại tự do cho Nguyễn Thái Học, các đồng chí và tất cả những đồng bào bị thực dân giam cầm trong ngục thất Hỏa Lò. Trong ngục thất Hỏa Lò, Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí bí mật viết một tờ báo lấy tên là “Tù Nhân Báo” để cổ võ tinh thần các đồng chí và tuyên truyền cách mạng trong các trại giam. Những vật liệu viết báo đều do tài vận động của cô Giang qua tay Giám thị và lính Lê Dương có phận sự canh gác ngục thất Hỏa Lò. Cô Giang còn tìm đủ mọi cách để gởi quà bánh và thông báo tin tức ở ngoài vào cho Nguyễn Thái Học. Thái Học cũng luôn luôn gởi thư ra khuyến khích cô Giang nên tích cực hợp tác với các đồng chí ở ngoài để cải tổ phụng sự Đảng hầu làm tròn sứ mạng giải phóng dân tộc ở tương lai.
Đến chiều ngày 16 tháng 6, một đồng chí tất tả chạy đến báo cho cô Giang biết: “Tối nay Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí sẽ bị đưa lên Yên Bái để hành hình.”
Tin đâu sét đánh ngang tai! Cô Giang lo lắng bồi hồi, ngồi không yên mà đứng cũng không yên! Đợi trời đổ tối, cô Giang dấu khẩu súng lục trong mình và mấy trái bom trong tay nải, rồi lẳng lặng cùng mấy đồng chí tìm những con đường vắng tiến ra ga Hàng Cỏ; nhưng không thể làm thế nào lên được trên xe lửa; sau nhờ có mấy đồng chí đốt than và thợ máy ngầm đưa quần áo cải trang, cô Giang và mấy đồng chí mới lên được toa xe lửa.
Ảnh thờ Anh hùng Nguyễn Thái Học và Cô Giang tại nhà hiện nay
Dưới vòm trời đen tối, sương sa mờ mịt, gió lộng từng cơn, bánh xe lửa rít lên không gian im lặng, lòng Nguyễn Thị Giang càng se thắt lại. Cùng đi một chuyến xe mà không được gặp nhau, dầu chỉ nói được một câu thôi! Bao nhiêu tình yêu thương, bao nhiêu nỗi căm hờn rồn rập cả vào tâm hồn nhà nữ cách mạng trẻ tuổi ấy! Hai giòng lệ trào xuống. Thôi thế là hết! Chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa thôi! Nguyễn Thị Giang mím miệng lắc đầu lảo đảo bước xuống ga Yên Bái.
Trống điểm tàn canh, gà gáy rồn báo sáng. Nguyễn Thị Giang cùng hai đồng chí cải trang thành nông phu địa phương lặng lẽ tiến đến pháp trường.
Trước sức mạnh của thực dân, hàng rào lính, cảnh binh và mật thám vây kín, không cho phép một ai được bén mảng đến gần. Nguyễn Thị Giang đành xen vào đứng lẫn trong đám người đến xem từ phía xa nhìn vào. Một lần nữa âm mưu phá pháp trường lại thất bại! Cô Giang cố nén nỗi căm hờn uất hận, không hề lộ ra nét mặt để một ai hay!
Cô Giang đã chứng kiến suốt từ đầu đến cuối tấn bi kịch chém giết dã man tàn bạo của quân cướp nước. Còn sự đau đớn nào hơn mỗi khi nhìn thấy lưỡi dao phập xuống, đầu một đồng chí rơi, máu đào phun ra; rồi cuối cùng đến người mà mình tôn thờ yêu quý. Những giòng máu trong cổ tuôn ra là những mũi dao đâm vào con tim người liệt nữ.
Tấn thảm kịch hạ màn vào đúng hồi 5 giờ 35 phút sáng ngày 17 tháng 6 năm 1930. Cô Giang cố gắng lấy lại bình tĩnh, lặng lẽ bước theo đám người lui về nhà trọ, nằm vật xuống giường nghỉ ngơi chốt lát rồi mua giấy bút viết hai bức thư “Tuyệt Mệnh” trên ba trang giấy trắng khổ hẹp bằng bút chì xanh, đề ngày 17 tháng 6, nguyên văn như sau:
Bức Thứ Nhất:
“Thưa Thày, Mẹ,
Con chết là vì hoàn cảnh bó buộc con. Không báo được thù nhà, rửa được nhục cho nước! Sau khi đã đem tấm lòng trinh bạch dâng cho chồng con ở Đền Hùng.

Giờ con tìm về chỗ quê cha đất tổ, mượn phát súng này mà kết liễu đời con.
Đứa con dâu bất hiếu kính lạy,
(Nguyễn Thị Giang.)

Bức Thứ Hai:
“Anh đã là người yêu nước!

Không làm tròn được nghĩa vụ cứu quốc!
Anh giữ lấy tấm linh hồn cao cả để về chiêu binh rèn lính ở dưới suối vàng!
Phải chịu đựng nhục nhã mới có ngày mong được vẻ vang! Các bạn đồng chí phải sống lại sau anh để đánh đổ cường quyền mà cứu lấy đồng bào đau khổ.”

“Thân không giúp ích cho đời!

Thù không trả được cho người tình chung!
Dẫu rằng đương độ trẻ trung,
Quyết vì dân chúng thề lòng hy sinh;
Con đường tiến bộ mông mênh,
Éo le hoàn cảnh buộc mình biết sao!
Bây giờ hết kiếp thơ đào,
Gian nan bỏ mặc đồng bào từ đây!
Dẫu rằng chút phận thơ ngây,
Sổ đồng chí đã có ngày ghi tên;
Chết đi dạ những buồn phiền,
Nhưng mà hoàn cảnh truân chuyên buộc mình!
Đảng kỳ phất phới trên thành,
Tủi thân không được chết vinh dưới cờ!
Cực lòng nhỡ bước sa cơ,
Chết sầu chết thảm có thừa sót sa,
Thế ru! Đời thế ru mà.
Đời mà ai biết! Người mà ai hay!”
(Nguyễn Thị Giang)

Viết xong hai bức tâm thư, cô Giang ra chợ mua mấy vuông vải trắng thắt ngang đầu, và ngay buổi chiều tối hôm ấy, cô đáp xe lửa trở về Vĩnh Yên.
Tờ mờ sáng hôm sau, cô Giang trở về làng Thổ Tang, vào mái nhà xưa của Nguyễn Thái Học, báo tin Thái Học đã bị hành hình rồi lạy tạ cụ ông và cụ bà Nguyễn Văn Hách, trối trăng lại mấy lời tâm sự, tháo chiếc đồng hồ đương đeo tay tặng cho Nguyễn Văn Lâm, mặt sau đồng hồ có khắc chữ “G”, rồi long thong như người mất trí tiến ra cái quán bán nước trà xanh dưới gốc cây đề, tục gọi là xóm Mới, thuộc xã Đông Vệ, giáp quốc lộ 2, cách làng Thổ Tang ngót một cây số.

Ngồi uống bát nước trà xanh, nghĩ đến tình nhà nợ nước, mà lòng đau xót chua cay, tinh thần cô rất là rối loạn; nhưng chí đã quyết định, cô liền từ biệt bà chủ quán ra đứng dưới gốc cây đề, hướng mặt về làng Thổ Tang, rút khẩu súng lục mà Nguyễn Thái Học đã tặng cô ở đền Hùng Vương ra kết liễu đời mình; hôm ấy là ngày 18 tháng 6 năm 1930, tức ngày 22 tháng 5 năm Canh Ngọ (22 tuổi).
Một vụ án mạng, hương lý xã Đông Vệ cấp báo với Tri phủ Vĩnh Tường. Phủ cấp báo lên Tỉnh, Công sứ Vĩnh Yên đánh điện về sở mật thám Hà Nội.
Thi thể cô Giang nằm dưới gốc cây đề, bên cạnh có khẩu súng lục phơi sương nắng cho mãi đến hồi 16 giờ ngày hôm sau, bọn thực dân mới kéo nhau đến. Arnoux còn đem theo Thanh Giang và Nguyễn Quý từ Hà Nội lên để nhận diện.
Viện cớ khám nghiệm, Chính quyền thực dân bắt lột hết quần áo cô Giang. Khi khám xét xong, không cho phép mặc lại rồi hạ lệnh cho Tri phủ Vĩnh Tường cùng hương lý sở tại mai táng chứ không cho phép gia đình Nguyễn Thái Học làm phận sự ấy.
Công sứ Vĩnh Yên lại ra lệnh bắt đào huyệt sâu hơn 3 mét, trên đắp thành nấm tròn, bắt dân sở tại phải làm điếm canh nơi gần mộ, cho mãi đến cuối năm 1930 mới bãi lệnh.
Khách bộ hành qua đấy thường thấy phủ kín trên nấm mồ nhà nữ cách mạng Nguyễn Thị Giang những bó hoa tươi thắm, và những nén nhang khói tỏa nghi ngút suốt 5 canh. Một chiến sĩ vô danh thời ấy đã vịnh bài thơ:
Sống nhục sao bằng sự thác vinh!

Nước non cho vẹn kiếp chung tình.
Lưỡi dao xử tử chàng không ngại!
Tiếng súng quyên sinh thiếp cũng đành!
Một tấm can tràng trời đất thảm,
Ngàn thu vẹn tiết quỷ thần kinh
Cuộc đời xá kể chi thành bại,
Trai đã trung thì gái phải trinh!

GIA ĐÌNH NGUYỄN THÁI HỌC
Làng Thổ Tang, quê hương Nguyễn Thái Học quy vuông 3 cây số, đông giáp làng Sơn Tang, tây giáp làng Lũng Ngoại, nam giáp làng Phương Viên, Thượng Chưng, bắc giáp quốc lộ 2. Chỗ rẽ vào làng tục gọi ngã ba Gốc Đề, tức là nơi Nguyễn Thị Giang tự tử.
Nguyễn Thái Học có tất cả 4 người em: Nguyễn Thị Hiền, Nguyễn Văn Nho, Nguyễn Văn Lâm, Nguyễn Văn Nỉ.
Nguyễn Văn Nho tính tình giống anh. Năm 1928 còn là học sinh lớp nhất trường Tiểu học Pháp-Việt, Việt Trì, bị thực dân ra lệnh đuổi ra khỏi trường, vì là em của Nguyễn Thái Học. Nguyễn Văn Nho bắt đầu theo Nguyễn Thái Học dấn thân vào con đường cách mạng. Bị Hội Đồng Đề Hình kết án xử tử vì hai tội: giết Phạm Huy Du và làm kinh tài cho Đảng rất táo bạo.
Nguyễn Văn Lâm, người em thứ tư, đương theo học lớp nhất trường Tiểu học Vĩnh Tường, cũng bị thực dân ra lệnh đuổi. Lâm là người rất thông minh, tính tình khảng khái, trở về nhà mua sách báo tự học, thông thạo cả tiếng Pháp, Anh và Nhật; cũng tự đọc sách nghiên cứu mà trở nên một nhiếp ảnh viên lành nghề.
Hồi tháng 6 năm 1946, Trần Huy Liệu lên diễn thuyết tại trụ sở UBKCHC phủ Vĩnh Tường. Nhân dịp Trần Huy Liệu ghé vào thăm vị từ mẫu Nguyễn Thái Học. Nguyễn Văn Lâm chỉ vào mặt Trần Huy Liệu mà nói:
– Gia đình tao không thèm chơi với tên phản Đảng, phản Quốc, cút đi ngay!
Rồi tìm gạch liệng, Trần Huy Liệu phải tự rút lui. Đến cuối năm 1947, quân đội Liên Hiệp Pháp hành quân tấn công thượng du Bắc Việt. Một toán lính nhảy dù xuống địa phương Trình Diện, cách làng Thổ Tang 9 cây số; một toán khác nhảy dù xuống Đồi Me thuộc khu vực ga Chống (Bạch Hạc), cách làng Thổ Tang 3 cây số, cùng tiến vây chặt trụ sở UBKCHC huyện do Việt Minh đặt tại làng Thổ Tang.
Hay tin Pháp quân đổ bộ, dân làng Thổ Tang bỏ chạy hết, chỉ còn một số rất ít không chạy kịp, trong số đó có Nguyễn Văn Lâm, bị Pháp quân bắt tập trung ở đình làng. Pháp quân dụ Lâm suốt cả tiếng đồng hồ, nhưng Lâm nhất định không chịu theo, còn mắng lại:

– Gia đình tao là gia đình cách mạng, hai anh em tao đã chết bởi bàn tay chúng mày; tao không bao giờ lại đi theo quân cướp nước.
Lâm nhất định không theo, Pháp nhất định giết. Lâm trả lời:
– Nếu chúng mày muốn giết tao, hãy đưa tao về nhà hãy giết.
Theo ý muốn của Nguyễn Văn Lâm, Pháp quân đưa về nhà. Đứng dưới cây dâu già, Lâm vạch áo phanh ngực cho Pháp bắn.

Giết xong Nguyễn Văn Lâm, Pháp quân quay vào đốt nhà cướp trâu, bắt lợn, gà, rồi kéo nhau đi. Hôm ấy là ngày 19 tháng 11 năm 1947.
Nguyễn Văn Nỉ, người em út của Nguyễn Thái Học vì còn nhỏ tuổi, nên mãi đến năm 1945 mới tham gia cách mạng. Được theo học nhiều lớp quân, chính của Đảng. Đến đầu năm 1948, Nguyễn Văn Nỉ theo các đồng chí rút sang Trung Hoa. Năm 1949, Hồng quân lan tràn khắp lục địa Trung Hoa, Nguyễn Văn Nỉ cùng một số đồng chí bị mắc kẹt không kịp trở về Việt Nam.
Gia đình Nguyễn Thái Học lại còn hy sinh cả người chú đồng chí là Nguyễn Quang Triểu, người ném bom Hà Nội đêm mồng 10 tháng 2 năm 1930, cùng lên máy chém với Nguyễn Văn Nho.
Gia đình Nguyễn Thái Học hiện nay còn lại một vị từ mẫu đã ngoài 80 tuổi cùng một cháu trai độc nhất là Nguyễn Thái Tuấn, năm nay vào khoảng 20, là con của Nguyễn Văn Lâm, giòng máu cuối cùng của một gia đình hy sinh cả cho Tổ Quốc (1967).
Viết đến đây chúng tôi không thể không nói đến một chuyện đã xảy ra vào hồi năm 1953, để chứng tỏ tính tình cương trực của vị từ mẫu của Nguyễn Thái Học. Nguyên vào hồi tháng 7 năm 1953, khi ấy Nguyễn Hữu Trí làm Thủ hiến Bắc Việt lên kinh lý tỉnh Vĩnh Yên, qua phủ lỵ Vĩnh Tường (làng Thổ Tang), phái Quận trưởng vào mời vị từ mẫu của Nguyễn Thái Học ra Quận đường để tiếp kiến nhưng vị từ mẫu ấy khước từ không ra. Trước khi ra về, Nguyễn Hữu Trí trao số tiền hai ngàn đồng cho Quận trưởng nhờ đưa vào kính biếu nhưng vị từ mẫu ấy cũng nhất định không nhận mặc dầu Quận trưởng Vĩnh Tường đã cầu khẩn hết lời.
Một lần khác, thấy vị từ mẫu của Nguyễn Thái Học làm ruộng nhưng không có trâu cày, Quận trưởng Vĩnh Tường thân dắt một con trâu đến kính biếu nhưng vị từ mẫu ấy cũng nhất định không chịu nhận.
===========
Chú Thích:
(1) Nguyên Thomas trước kia làm giáo sư tại trường Trung học Chasseloup Laubat ở Sài Gòn, vì thái độ ngạo nghễ và cách dạy học trò mất dạy của y mà đã bị học sinh trường đó đánh cho một trận đòn nên thân. Sau đó Thomas bị đổi ra Bắc dạy trường Bưởi.
(2) Hồ Văn Mịch dáng người nhỏ nhắn, tư chất thông minh, tính tình quả cảm. Nguyên quán tại làng Đồng Hỷ, phủ Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Xuất thân làm giáo học, được ít lâu Hồ Văn Mịch xin nghỉ để theo học lớp Cao đẳng Sư phạm.
Sau vụ ám sát Bazin tháng 2 năm 1929, Hồ Văn Mịch bị bắt giam, Hội Đồng Đề Hình kết án 10 năm cấm cố, đày ra Côn Đảo.
Trước ngày bị bắt giam, Hồ Văn Mịch đã mắc bệnh lao phổi, nên đã tạ thế tại Côn Đảo ngày mồng 8 tháng 4 năm 1932. Ở đây anh em có dựng trên mộ một tấm bia bằng xi-măng, khắc mấy chữ: “Hồ Văn Mịch 1930” làm kỷ niệm. Một người bạn thân, một đồng chí đầy mưu lược, luôn luôn ở bên cạnh Nguyễn Thái Học nói: “Anh Học bề ngoài tuy nóng nảy, nhưng mưu việc gì thì rất nhiều cơ trí, mà đãi người thì rất mực chân thành.”
VNQDĐ SỬ- HOÀNG VĂN ĐÀO

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét